KHUYẾN NỮ HỒI TÂM KINH
                                          TRUNG THỪA

Cơ Tạo-Hóa nhiệm mầu luật định,
Lý Vô-Vi đức-tín Đất Trời,
Hư vô chủ tể loài người,
1- Cơ căn bất động, có đời đó con.
Ngôi tháp kia, bao tròn lớn rộng,
Có phải nhờ đất trống đó chăng?
Một cây cổ-thọ già cằn,
2- Sanh ra do bởi mộng bằng sợi tơ.
Muôn loài vật đều nhờ Thiên-Đế,
Dụng Chơn-Thần hầu dễ biến sinh,
Tuần hườn biến hóa siêu hình,
3- Càn-Khôn thế giái chương trình phải theo.
Ban sơ Thầy truyền gieo Bổn-Tánh,
Cho mỗi con phải lãnh một phần,
Trạng hình, vật chất, thể thân,
4- Thâu vào giữ lấy bởi cần trường-sanh.
Linh-hồn chịu dỗ dành, bợ đỡ,
Vật-chất dùng hết cớ duy trì,
Tinh-Thần tan rã một khi,
5- Xác thân, vật chất, còn gì nữa đâu?
Hình vạn loại mặc dầu có khác,
Mà Linh-Hồn giống tạc như khuôn,
Các con phải nhớ luôn luôn,
6- Xã thân vật chất, phò khuôn Linh-Hồn.
Linh-Hồn vẫn trường tồn bất tử,
Xác thân hôi chớ giữ nghe con,
Một mai thân tục chẳng còn,
7- Linh-Hồn nhập xác khác tròn tốt hơn.
Kim thạch cũng tuần hườn tấn hóa,
Chẳng nệ mình nuôi cả cỏ cây,
Đúng ngày Tạo-Hóa sắp bày,
8- Trở hình thảo-mộc chẳng sai chẳng rời.
Loài sau nầy nuôi người, nuôi vật,
Công quả tròn, hạ vật hườn nguyên,
Thú cầm xã mạng đến phiên,
9- Dưỡng nuôi giúp đỡ liền liền chúng sanh.
Linh hồn qua khí thanh Trung-Giái,
Chính Chơn-Nhơn ngự tại Thượng-Thiên,
Phàm nhơn là một nhánh liền,
10- Của Chơn-Nhơn xuất, hạ-thiên ấy gìn.
Quanh mặt Nhựt, hành tinh bảy dãy,
Muốn chưởng ngôi người phải luân hồi,
Hoàn toàn tâm tánh trau giồi,
11- Trọn lành, trọn phước, cựu ngôi trở về.
Có cay đắng: dễ bề phán đoán,
Có giang hồ: mới hản phong sương,
Có Tu kinh nghiệm mới tường,
12- Đạo Chơn Chánh Giáo, con đường siêu sanh.
Thượng-Giái cảnh, Tiên-Thành muốn tới,
Diệt luân hồi thì mới thoát thân,
Dứt tâm tham dục năng cần,
13- Khử trừ ám muội, đến lần quang minh.
Bởi buổi trước tự mình gây họa,
Nên kiếp nầy phải trả cho xong,
Huệ-Quang khá mở mới thông,
14- Tham-Thiền thanh tịnh, hư không phản hườn.
Mẹ chỉ con rõ Chơn-Lý Đạo,
Luận giải rành máy Tạo chuyển xây,
Các con rán nhớ đoạn nầy,
15- Hầu sau luyện tập thoát dây ái trần.
Con đã đọc lắm lần sách Đạo,
Học thuộc lòng Thánh-Giáo Thần Tiên,
Mà con đã hiểu căn nguyên,
16- Lập thành võ trụ, trần duyên hiện tiền?
Ban sơ, Dương hiệp liền Âm điển,
Tánh cang nhu, biến chuyển Càn Khôn,
Điều hòa vi “Thái” trường tồn,
17- Chơn linh dũng điệu, động dồn biến sanh.
Khi yên lặng biến thành lạnh, tối,
Lúc động lài sẽ đổi sáng quang,
Cảm giao hai lẽ rõ ràng,
18- Nóng, hơi, đặc, lỏng, hoàn toàn bổn căn.
Bốn nguyên tố gọi rằng: Tứ-Đại,
Tánh hiệp hòa, âu phải biến sanh,
Phân ly, Tánh rã tan tành,
19- Hiệp tan, tan hiệp, biến thành thế gian.
Trời là Đấng hoàn toàn linh-diệu,
Lý “Thái” ngôi, thông hiểu hữu vô,
Quản cai tuyệt đối vạn đồ,
20- Vô tư, vô cảm, điểm tô muôn loài.

Lý Tạo-Hóa phân ba ngôi chánh,
Xét cho rành thêm ngánh thứ tư,
Tứ Nguyên: Thái-Cực ân sư,
21- Tam Nguyên, âm thể, lý dư của đời.
Trước Thượng-Đế lập ngôi thứ nhứt,
Ấy là ngôi: Thái-Cực phân minh,
Động lai, dương hỏa hóa sinh,
22- Hỏa là Thần đó: Chơn-Linh Thượng-Hoàng.
Thái-Cực Tinh, âm tan làm Thủy,
Thủy tức Tinh, chơn vị Diêu-Trì,
Hiệp hòa Thủy Hỏa chuyển vi,
23- Bổn căn dương khí, tỏ thì Lý Chơn.
Thái-Cực, Động-Tinh: lần đôi Lý,
Ấy duyên do ngôi Nhị: Lưỡng-Nghi,
Thái-Dương, Thái-Âm nên ghi,
24- Chủ Dương: Ngọc-Đế; Diêu-Trì phần Âm.
Đoạn mượn phép Âm Dương giao tiếp,
Điểm Chơn-Dương lần hiệp Thái-Âm,
Sanh ra hai khí chẳng lầm,
25- Thiếu-Dương cùng với Thiếu-Âm rõ ràng.
Ngôi Tứ-Tượng hoàn toàn thành lập,
Bát-Quái-Đồ đặt sắp Hóa-Công,
Chơn-Hồn: bát phẩm biến thông,
26- Chuyển luân hóa kiếp trần hồng đó con.
Hình Thái-Cực điểm tròn Đen nhỏ,
Tượng giữa Vàng, Trắng, Đỏ bao ngoài,
Điểm Đen chuyển vận xẹt ngay,
27- Chia đôi mặt Trắng, phân rày âm dương.
Trung tâm Trắng có đường Đen khác,
Đứng thẳng lên, giống tạc lằn trên,
Cắt hai, phân nữa mỗi bên,
28- Bốn phần rõ rệt, ngôi đền thứ Ba.
Tam Khí-Âm phân ra ba cấp,
Bất động ngôi, vốn lập nền nương,
Gây nên hỗn loạn lắm đường,
29- Ấy ngôi hoạt động, thường thường động xa.
Ngôi dung hợp, điều hòa sanh hóa,
Lúc đầu tiên, tất cả lặng yên,
Tam Dương, ngôi Động chuyển Thiên,
30- Âm Dương giao cảm, biến liền không gian.
Ba ngôi Âm rõ ràng Mẹ đẻ,
Ra các đời, con trẻ nhớ ghi,
Ngôi Ba, hợp lý Âm thì,
31- Sanh ra vật chất, không khi nào lầm.
Ngôi thứ Hai, hiện lâm phàm đó,
Vật chất dùng sẵn có mà làm,
Vạn hình, vạn loại trần phàm,
32- Tinh Thần, vật chất giữa làm mối dây.
Ngôi thứ Nhứt, liền gây kế tiếp,
Ấy Cha sanh: muôn kiếp Linh-Hồn,
Bảy ngôi Tứ-Tượng Càn-Khôn,
33- Khí linh Trời Đất giúp dồn Thượng-Thiên.
Cơ Tạo-Hóa luân vi Bảy Vị,
Đại-La Thiên-Đế chỉ khác nhau,
Biệt riêng cá tánh dồi dào,
34- Mỗi Vì sanh Bảy, Vị vào Lưỡng-Nghi.
Tại Lưỡng-Nghi, mỗi vì nảy nở,
Ra Bảy Vị ngụ ở Niết-Bàn,
Biến sanh tấn hóa mọi đàng,
35- Hư không bảy cõi, bảy hàng Đại-La.
Cõi Hạ-Giới: phân ra bảy hạng,
Bảy Đại-La cai quản Thái-Dương,
Mỗi Vì săn sóc một đường,
36- Thời Thần Thập-Nhị tùng nương phận hành.
Nơi hệ thống sẵn dành Thần Thánh,
Giúp công làm, mỗi nhánh, mỗi chi,
Huyền-Thiên Thượng-Đế mỗi Vì,
37- Nam-Tào, Bắc-Đẩu, bốn Vì Thiên-Vương.
Huyền-Thiên mở riêng đường tấn hóa,
Trong Thái-Dương gồm cả hành tinh,
Gồm thâu Chưởng-Quản đinh ninh,
38- Phật, Tiên, Thần, Thánh, giữ gìn từng ngôi.
Mỗi Vì lãnh trau giồi kiểu mẫu,
Phân Nam-Tào, Bắc-Đẩu hiểu rành,
Luân hồi, quả báo ngọn ngành,
39- Thiên-Vương Tứ-Đại thi hành luật kia.
Con muốn biết phân chia Võ-Trụ,
Trước con nên học đủ thân sinh,
Luân hồi bảy thể đinh ninh,
40- Trần hoàn ấy tại trong mình con kia.
Hơi, Đặc, Lỏng: khóa chìa xác thịt,
Tụ Khí-Tinh: tụ tích Phách con,
Nếu Thân mãnh vẽ mập tròn,
41- Phách con giống tạc hình con đó mà.
Rút sanh lực hiệp hòa vía thể,
Mất Phách rồi, khó dễ sống dai,
Thâu Thần, Phách xuất ra ngoài,
42- Giữ đừng động chạm, nạn tai ắt kề.
Xác mất Phách: mê mê, dại dại,
Trí lờ-đờ, phổi phải yếu lần,
Tim ngưng náo động kinh thần,
43- Khí Tinh hình kết, luôn gần Đồng-Loan.
Phách xuất thân: hoàn toàn giảm lực,
Bởi chất sanh chuyển xuất không đều,
Thình lình tiếng động gọi kêu,
44- Phách liền nhập xác: ấy điều nên kiêng.
Vì sực tỉnh, tim liền nhảy mạnh,
Mỗi cơ quan nhịp đánh quá mau,
Đồng-Loan cam chịu ốm đau,
45- Hay là phải thác, làm sao cứu hồi?
Khi xuất ngoại, Phách ngồi bên tả,
Khí, Tinh, dùng: mượn cả người hầu,
ít nhiều, vô hại, mau lâu,
46- Tùy nơi thọ cảm sức thâu của Đồng.
Quỷ muốn xuống trần hồng phá khuấy,
Do Đồng-Loan tánh quấy xấu xa,
Khí, Tinh trong Phách mượn ra,
47- Thật hành môi giới, vẽ Ma dạy đời.
Vì ghiền thuốc mà người mạng thiệt,
Linh-hồn người theo riết nhơn sanh,
Bao trùm Vía một Khí thanh,
48- Loanh quanh, lẩn quẩn để giành hít hơi.
Bởi không thế sống đời để hút,
Nên hồn theo xúi giục kẻ phàm,
Nhả hơi, phun khói tham lam,
49- Nhập vào xác ấy để làm thỏa thân.
Có các vị Quan-Thần hộ mạng,
Biết hại nhơn nên rán chở che,
Đỡ ngưng, ngăn đón dặt dè,
50- Chẳng cho hồn trược nhập đè Đồng-Loan.
Bảy bí yếu hoàn toàn của Phách,
Chuyển Luân-Xa ở cách sáu ly,
Thể Thân rẽ quạt mấy khi,
51- Xoay tròn, quây mạnh, khác gì bánh xe.
Rút sanh lực vào che Phách Xác,
Phát sanh lực rải rác ra ngoài,
Thông thương Vía Thể lạ thay,
52- Dây Thần-Kinh-Hệ lập ngay một cầu.
Tinh Khí tựu nơi đầu cái Phách,
Bí yếu “Thanh” thường vạch trong thân,
Bảy ngôi, tánh chất rẽ phân,
53- Luân-Xa qui hiệp có phần nhiều hơn.
Nơi Xa-Luân qui hườn Sanh-Chất,
Ở Giái-Trung xẹt mất vào trong,
Hóa ra Năm-Lực thật đồng,
54- Đi ngang trên dưới, cảnh Không, Thân ngoài.
Chưa tấn hóa, Bảy nơi hơi sáng,
Học Đạo rồi, hình dạng nở ra,
Lớn như mặt Nhựt chói lòa,
55- Hào quang tươi tốt tỏa ra thân mình.
Nơi Lá-Lách, sáu hình Sanh-Lực,
Sanh chất cầu, rút chất Khí Thanh,
Hóa phân Thân-Thể lưu hành,
56- Phát Nguyên-Tử khắp trong thành Xa-Luân.
Bảy Nguyên-Tử châu Thân rút bớt,
Còn Tử-Nguyên sắc lợt màu hường,
Chạy về bí yếu Nê-Hườn,
57- Sắc thay luân chuyển theo đường Thần-Kinh.
Hết Sanh-Lực những hình Nguyên-Tử,
Do chơn lông tống khứ ra ngoài,
Hào quang thành tựu đẹp thay,
58- Giúp người cường tráng, càng ngày càng tươi.
Luân-Xa bốn cánh, người mạnh khỏe,
Tại Vĩ-Lư thường vẽ Thập-Điều,
Dùng nuôi Sanh-Dục khó tiêu,
59- Châu thân ấm áp, dẹp điều tình si.
Chủ Phàm-Nhơn rõ thì hiệu quả,
Lằn Lực-Sanh, nuôi cả óc người,
Hỏa-Hầu khởi tại Vĩ-Lư,
60- Đốt đồ nhơ bợn, để trừ nạn tai.
Tại nơi Rún, trong ngoài mười cánh,
Nuôi ruột gan, dẫn mạnh máy thân,
Mở ra cảm giác bâng khuâng,
61- Hay là hòa thuận, đo cân mọi điều.
Tại nơi Tim: sắc thiêu vàng sáng,
Mười hai tay giống dạng hoa sen,
Từ nơi Lá-Lách lên chen,
62- Nuôi Tim giúp sức, bao phen nhịp hoài.
Theo Luân-Xa vòng ngoài chất sạch,
Rồi chảy vào huyết mạch nuôi thân,
Trở lên trên óc một phần,
63- Cảm động trẻ khác, tránh trần đến Trung.
Nơi Yết-Hầu muôn trùng màu sắc,
Giống ánh trăng trên mặt nước sông,
Nhiều xanh, lóng lánh xa trông,
64- Tím xanh Lá-Lách, phân đồng đôi câu.
Thứ xanh lợt, Yết-Hầu dung dưỡng,
Thứ đậm xanh sẽ thượng Nê-Hườn,
Chín trăm sáu chục cánh đơn, (960)
65- Vận thêm sanh chất, phần hơn sức người.
Giữa Chơn-Mày vàng tươi chàm đậm,
Bí yếu nơi Vía thâm Nhãn-Thần,
Lớn nhìn ra nhỏ vật trần,
66- Nhỏ hườn lại lớn, muôn phần biến nên.
Có Nhãn-Quang nhìn trên Trung-Giái,
Thấy linh hồn lại lại, qua qua,
Trông Trời, trông chẳng bao xa,
67- Con hành lời Mẹ, rõ là lời chơn.
Màu Luân-Xa, Nê-Hườn trắng trắng,
Có mười hai cánh chẳng phía trong, (12)
Chín trăm sáu cánh ngoài vòng, (960)
68- Tia Vàng pha lẫn chất Hồng sáng Xanh.
Nếu sáu bảy tựu thành một tụi,
Đụng nhau nơi lỗ mũi thông thương,
Dưới trên Thượng Hạ mở đường,
69- Ra vào nhơ bẩn dễ thường trò chơi.
Bí yếu Sáu chẳng rời lỗ mũi,
Thì Xa-Luân bảy đổi hướng hầu,
Chạm nhầm cục hạch nơi Đầu,
70- Kẻ trần tiếp xúc với cầu Hạ-Thiên.
Nếu bí yếu Bảy liền mở rộng,
Con ở trần, chẳng giống kẻ trần,
Xuất hồn khỏi xác bao lần,
71- Làm chi Trung-Giái, nhập thân biết liền.
Sự hiểu biết trần duyên chẳng đoạn,
Ngày như đêm vẫn sáng như thường,
Định-Thiền đôi mắt chẳng vương,
72- Mà đều hiểu rõ những đường đã qua.
Lớp Tinh Khí ngăn xa Phách Thể,
Giữ Vía không chớ để sớm gần,
Kết bằng Nguyên-Tử hồng trần,
73- Hiệp nhau rất khít, sống cần chất Sanh.
Tứ-Đại-Vương góp thành tư tưởng,
Nhập một sanh: hình tượng Phách con,
Chung quanh mình Mẹ bao tròn,
74- Lần lần rồi lại nhập lòn vào trong.
Ấy khuôn khổ trần hồng Thân Xác,
Hành phận xong rải rác mất đi,
Linh-Hồn lo lắng Hài-Nhi,
75- Có khi lưu lại, tận thì Thất niên.
Tinh, Khí, Phách: sanh liền Thân trẻ,
Vốn rút trong Phách Mẹ hiểu chăng?
Xấu xa tươi tốt đều rằng,
76- Do nơi tư tưởng Mẹ hằng ước mong.
Tại Phách đầu, xuất trong khi thác,
Dây Khí, Tinh, cột Xác dứt liền,
Phách màu tím vội đặc yên,
77- Lực-Sanh ra khỏi, thây liền lạnh tanh.
Gom lại Tim, bao quanh Nguyên-Tử,
Thượng-Trí nơi tích trữ bên trong,
Tế-Bào vẫn sống riêng không,
78- Xác thân tuy chết, chơn lông mọc hoài.
Chất Thanh-Khí đứng vai thứ Sáu,
Trong Bảy Ngôi cấu tạo trần ai,
Thượng-Thiên bảy cảnh sắp bày,
79- Nặng nề khí thấp, đẹp thay Khí Trời.
Cõi thứ bảy, chất Hai xấu xí,
Càng lên cao Thanh-Khí càng xinh,
Nhẹ nhàng thanh khiết thăng bình,
80- Luồng ngang chun thấu, thinh thinh việc Thầy.
Hột Nguyên-Tử hiệp vầy kế cận,
Mà vẫn không hề hấn chạm nhau,
Vì trung tâm điểm thế nào?
81- Có Thanh-Quang-Khí chun vào luôn luôn.
Đem phân chất hai luồng Nguyên-Tử,
Thấy rõ ràng tích trữ Dương Âm,
Lục-Trung, Dương-Điển qua ngầm,
82- Cõi trần Thần-Lực, Điểm-Âm luồng vào.
Con đã biết bảy màu Trung-Giái,
Rồi sau đây Mẹ giải con nghe,
Hiểu xong con khá dặt-dè,
83- Nếu không kềm Tánh, Mẹ e con lầm!
Nếu xấu xí Điển-Âm thì phải,
Rút Khí-Thanh Trung-Giái tuần hườn,
Con người cũng thể nào hơn,
84- Vía ngang qua xác để hườn Thất-Tinh.
Vía bao cả thân hình thể Xác,
Lớn nở ra, chiếm đoạt Khí-Trung,
Bởi nên những kẻ ác hung,
85- Trở nên cảm xúc lung tung đủ điều.
Nếu con ở mỹ-miều bác-ái,
Làm việc nhơn, chuyện trái dứt xa,
Vía con cũng nở lớn ra,
86- Thượng, Trung, hai Khí hiệp hòa kết nên.
Ấy Vía chủ của nền rung động,
Xui người làm nổi sóng phá đời,
Mẹ khuyên con trẻ hết lời,
87- Làm Thầy cái Vía, nên người thông minh.
Nếu trẻ muốn trọn gìn mối Đạo,
Cảm xúc đều: Chánh Giáo, Chánh Chơn,
Chuyển rung Vía động Chơn-Nhơn,
88- Ngụ nơi Thượng-Trí thiệt hơn dạy phàm.
Linh-Hồn tạm chia làm bốn thể,
Xác, Phách trần chỉ kể một thôi,
Vía và Trí: rán trau giồi,
89- Lu lờ Thiên-Tánh, suy tồi phàm nhơn.
Vía: ham, muốn, thương, hờn, tình dục,
Ấy dây oan, cột thúc các con,
Cảm tình cao vọng chẳng còn,
90- Tâm-Hồn nhơn đạo phải mòn phải lơi.
Bảy lớp Vía, sắp hơi cặn kẻ,
Lúc sanh tiền chẳng rẽ chia nhau,
Đến khi nhắm mắt tường hao,
91- Việc chi lớn nhỏ, việc nào cũng thông.
Chuyện hành tàng khó hòng sai lở,
Người biết người phải ở cõi nào,
Vài giây hình ấy bạc màu,
92- Vô tri, vô giác, Hồn vào cảnh mê.
Bảy lớp Vía sẽ về sắp lại,
Nặng bọc ngoài, nhẹ phải vào trong,
Chia phân thứ lớp hợp đồng,
93- Hiệp cùng Bảy Khí ở trong cõi Trời.
Chất Bảy, Sáu, Năm, thời nặng nhọc,
Khí Ba, Hai, Một, lọc kỹ càng,
Cần nên chỉ vẽ rõ ràng,
94- Vía phân nặng nhẹ, con tàng Thiên-Cơ.
Nếu tâm trẻ ước mơ chuyện quấy,
Chất Khí-Thanh nổi dậy tản bay,
Vía con khí trược vào thay,
95- Trám vào lỗ trống, thế rày Khí-Thanh!
Còn trái lại đổi thành Thanh-Khí,
Kẻ tu-hành, Vía, Trí sáng lòa,
Những người tưởng chuyện tà ma,
96- Vía người u tối, đâu là trò chơi.
Trong Vía có mười nơi bí yếu,
Khí Giái-Trung phản chiếu Chơn-Như,
Đầu tiên ngự tại Vĩ-Lư,
97- Lặng yên luồng Hỏa, thông tư buổi đầu.
Luồng Hỏa-Hầu bò sâu tới Rún,
Khiến trẻ thơ nao núng lạ thường,
Giác-Quan rung động lẹ bương,
98- Khác xa cảm giác thông thương Xác Thần.
Rồi nó lại qua lần Lá-Lách,
Thâu Lực-Sanh, trong sạch toàn thân,
Đến đây phải nhớ cho cần,
99- Vía con xuất được, lâng-bâng cận Trời.
Mở tại Tâm giúp người hiểu đặng,
Tình ý người khuất vắng cảnh trên,
Yết-Hầu bí yếu chớ quên,
100- Có thâu thì được, nghe rền từng Trung.
Giữa Chơn-Mày mở cùng Thần-Nhãn,
Mọi vật đều tường hản nhỏ to,
Trần gian, trung giái khỏi mò,
101- Nhìn qua con biết, phân so ít nhiều!
Tại Đảnh Đầu là điều nên nhớ,
Càng hiểu, càng nghe, rõ Nhơn-Trung,
Ngày đêm Trung-Giái dạo cùng,
102- Chừng về nhập xác, thung dung như thường.
Còn sót lại ba đường bí yếu,
Các con không cần hiểu làm chi,
Giảng ra cũng chẳng ích gì,
103- Bởi theo Chánh-Giáo điều ni không dùng.
Màn Tinh Khí ngăn cùng nhiều chỗ,
Giữ đừng cho rách đổ Tế-Bào,
Tinh-Thần sẽ bị hư hao,
104- Con người sau trước thế nào cũng điên.
Trong Xương Sống có xuyên ba lỗ,
Thông Nê-Hườn đến chỗ Vĩ-Lư,
Trong luồn Ba Sợi Gân như,
105- Chỉ tầm dệt kén, hiệp từ cuối xương.
Tại Vĩ-Lư có thường luồng điển,
Nằm khoanh tròn, hình hiện Rắn Thần,
Điển quang sức mạnh vô ngần,
106- Ấy nhờ mãnh lực chuyển lần Âm Dương.
Máy tuần hườn phải nương theo đó,
Khi Tham-Thoàn, Điển nhỏ bò lên,
Đường gần chính giữa phía trên,
107- Tâm-thần xuất ngoại lạc quên cõi ngoài.
Chơn-Tâm ở Thiên-Thai chuyển vọng,
Thông thương cùng khoảng trống Thượng-Thiên,
Càn-Khôn, Võ-Trụ, trần duyên,
108- Như giòng sông nhỏ thông miền biển khơi.
Thần-Lực ấy con ôi đẹp đẽ,
Tạo-Hóa ban, sau sẽ hườn nguyên,
Không Tu nào rõ phép Tiên,
109- Chỉ đàng cho trẻ hữu duyên gặp Thầy!
Sự dẫn Hơi-Thở đây chẳng dễ,
Cách có hai hình thể khác nhau,
Ngoại hô-hấp thở Mũi vào,
110- Bên trong Nội-Tức, phải nào dễ đâu!
Tinh, Khí hòa: luyện thâu Chánh-Khí,
Cầu Minh-Sư dạy chỉ mới nên,
Đổi dời Hô-Hấp chớ quên,
111- Nếu dùng Nội-Tức đâu nên lẽ thường.
Bầu Tinh Khí khó lường khó chứa,
Nếu Tinh đầy, ít lửa chảy ra,
ít Tinh, nhiều lửa, cạn đa,
112- Người sanh lãng trí, sao là luyện thân?
Dẫn Hỏa-Hầu năng cần tu kỷ,
Nếu bất thông, con sẽ hại thôi,
Nó là Nước, Lửa, con ôi!
113- Nóng Thân nếu chuyển, lên rồi khó thay!
Nếu Công-Quả chưa đầy thì chớ,
Dẫn Hỏa-Hầu e lở hại thân,
Đến đâu đốt cháy rần-rần,
114- Tham-lam, ích-kỷ, tiêu lần ra tro!
Hình Tư-Tưởng là do nơi Trí,
Giồng mây tròn, tụ Khí Bồ-Đề,
Trước khi muốn vẽ nhánh huê,
115- Các con dụng Trí, tưởng về đóa hoa.
Người Tưởng lành, hóa ra Thiện-Tánh,
Kẻ độc tâm, khó tránh ác lai,
Cội nguồn của phước đức đây,
116- Luân hồi quả báo, chuyển xây nơi nầy.
Trí ngăn ra nhiều dây nhiều lớp,
Giữ thông đồng hòa-hợp óc người,
Mỗi Tư-Tưởng có ngăn tư,
117- Người không tấn hóa cũng như lạc đường.
Trí chưa mở, khó tường Chơn-Chánh,
Mất lối đường, khó tránh hành sai,
Trí con hình dạng rõ thay,
118- Lớn trên, nhọn dưới, tùy tài mỗi con.
Trong Trí có hột tròn lưu Tánh,
Để nhớ ghi, so sánh, nghiệm suy,
Con thông kiếp trước việc chi,
119- Đã làm, đã nghĩ trong khi luân hồi.
Kẻ học Đạo trau giồi Tư-Tưởng,
Qua Giái-Trung muôn tượng hiệp thành,
Cảm giác, tư tưởng cõi Thanh,
120- Điều hòa minh bạch, sẵn dành con đây.
Trí của con lại gây hai thứ,
Hạ-Trí cùng Vía-Dữ dục tình,
Khiến làm việc chẳng quang minh,
121- Các con học Đạo phải gìn phàm nhân.
Thượng-Trí gần Kim-Thân tá túc,
Vẽ điều lành trong lúc Tham-Thiền,
Kết thành Thanh-Khí Trung-Thiên,
122- Quản cai Hạ-Trí ấy quyền chất Thanh.
Cái Vía thường biến sanh ham muốn,
Trí dèm khôn, lôi cuốn xen vào,
Dầu đèn, Xác Vía, khác nào,
123- Linh-Đăng quân tử, biết trau hữu dùng.
Sửa Tư-Tưởng phải dùng nhân ái,
Tư-Tưởng hư, đổi lại đẹp xinh,
Từ giờ, từ khắc, xét mình,
124- Buộc kềm cái Trí vẽ hình xấu xa.
Lương-Năng mở, chánh tà khó thấu,
Con thường hay kể xấu Tánh người,
Còn con làm quấy ai cười?
125- Mắt rơm chẳng thấy, thấy người sợi lông!
Thường tuổi trẻ ước mong cao vọng,
Làm thợ thuyền, muốn đóng phú gia,
Ngắn tay muốn vói cho xa,
126- Cổ thì quá thấp, muốn la thấu trời.
Ấy Tư-Tưởng xa vời quá thế,
Thì phải lo kềm chế nó đi,
Tưởng thầm mình phải nghiệm suy,
127- Nhà cao, xe đẹp, ích gì mà mơ?
Thấy việc trái: giả ngơ, giả điếc,
Việc phải làm: chi xiết vui mừng,
Tưởng điều ích kỷ thì đừng,
128- Tưởng điều hữu ích, nhơn quần noi theo.
Tư-Tưởng sạch truyền gieo Chơn-Chánh,
Tham, Sân, Si: phải tránh, sớm trừ,
Vẹn gìn hành động tốt tươi,
129- Nói năng mực thước nên người đó con.
Tánh khiêm hòa, xử tròn Bảy nghiệp,
Giữ Sát-Sanh, giữ kiếp Tà-Dâm,
Vọng-Ngôn, Ý-Ngữ là năm,
130- Lưỡng-Thiệt, Ác-Khẩu, bực nhân tu hành.
Câu Ngũ-Thường: dễ hành, dễ khép,
Ở công bình, khuôn phép, lễ nghi,
Nghĩa, Nhơn, Lễ, Trí, Tín chi,
131- Dung hòa mọi vật, khá ghi gắn lòng.

                                                                  Trở Lại Mục Lục